Tổng quan Bệnh đậu mùa
Bệnh đậu mùa là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus variola gây nên, bệnh được đặc trưng bởi sốt, phát ban và có tỷ lệ tử vong cao. Từ năm 1979, trên toàn cầu đã công bố xóa sổ bệnh đậu mùa, đánh dấu một trong những thành tựu vĩ đại nhất của y học hiện đại.
Bệnh đậu mùa xảy ra với hai thể: Thể bệnh nặng do variola, là một thể bệnh nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong từ 30- 50 % ở người chưa được chủng ngừa, và thể bệnh nhiễm trùng nhẹ hơn với tỷ lệ tử vong dưới 1%. Hai dạng này là do các chủng vi rút variola khác nhau gây ra.
Trong quá khứ, bệnh đậu mùa là bệnh đặc hữu. Ở các vùng khí hậu ôn đới, bệnh đậu mùa lưu hành vào mùa đông và mùa xuân và chủ yếu và là bệnh của trẻ em và thanh niên. Có ít biến động theo mùa hơn ở các vùng khí hậu nhiệt đới, tuy nhiên, ở những vùng có mùa nóng (độ ẩm cao) và mùa mát (độ ẩm thấp) rõ rệt, tỷ lệ mắc bệnh đậu mùa luôn cao hơn nhiều vào mùa khô, mát.
Bệnh đậu mùa thường gặp ở trẻ nhỏ
Nguyên nhân Bệnh đậu mùa
Virus Variola thuộc dòng orthopoxvirus, thuộc họ Poxviridae. Virus Variola là một loại virus DNA lớn (200 đến 400 nm) thiếu đối xứng hai mặt, không giống như hầu hết các virus DNA khác. Virus có cấu trúc phức tạp với màng ngoài, hai thể bên và lõi hình quả tạ chứa một phân tử đơn DNA sợi kép. Toàn bộ bộ gen 186.000 cặp bazơ đã được giải trình tự.
Vào những năm 1800, một dạng bệnh đậu mùa nhẹ hơn đã được ghi nhận ở châu Mỹ, sau đó được xác định là thể bệnh nhẹ do virus variola. Việc xác định trình tự của virus đã chỉ ra rõ ràng đây là một chủng virus variola khác, những thay đổi trong biểu hiện gen khác biệt có thể giải thích sự khác biệt về độc lực. Các xét nghiệm chẩn đoán mới hiện có thể phân biệt hai chủng virus.
Triệu chứng Bệnh đậu mùa
Như đã đề cập ở trên, bệnh đậu mùa xảy ra ở 2 thể bệnh: Bệnh variola thể nặng, là một nhiễm trùng nghiêm trọng và thể bệnh nhẹ, là một bệnh nhiễm trùng nhẹ hơn. Tuy nhiên, hai bệnh nhiễm trùng không thể được phân biệt trên lâm sàng ở một bệnh nhân riêng lẻ. Các kỹ thuật chẩn đoán phân tử hiện đại có khả năng phân biệt giữa hai chủng variola.
Bệnh đậu mùa được phân thành 5 thể lâm sàng, liên quan đến mức độ nghiêm trọng khác nhau của bệnh. Nói chung, bệnh đậu mùa nghiêm trọng nhất ở trẻ sơ sinh, người lớn tuổi và những người suy giảm miễn dịch, bệnh nhẹ hơn ở những người đã được chủng ngừa.
1. Thể thông thường
- Thời gian ủ bệnh là 10 đến 14 ngày (khoảng 7 đến 19 ngày).
- Giai đoạn đầu, kéo dài từ hai đến bốn ngày, được đặc trưng bởi sự khởi đầu đột ngột của sốt cao, đau đầu dữ dội, nôn mửa, tiêu chảy, đau lưng và mệt mỏi.
- Giai đoạn toàn phát được đặc trưng bởi các tổn thương trên màng nhầy (enanthem), sau đó khoảng 24 giờ là phát ban trên da (exanthem). Tổn thương trong miệng đầu tiên xuất hiện dưới dạng sẩn, sau đó là mụn nước trên lưỡi và vòm họng. Sự lây lan của exanthem là theo hướng ly tâm, ban đầu ở khuôn mặt, sau đó là các chi gần, thân và các chi xa. Các nốt ban tiến triển thành sẩn vào ngày thứ 2, mụn nước vào ngày thứ 4 đến ngày thứ 5 và mụn mủ vào ngày thứ 7. Sốt đôi khi tái phát trong giai đoạn mụn mủ.
- Hơn 70% các trường hợp đậu mùa ở thể thông thường, được chia nhỏ thành ba loại tùy theo loại phát ban.
2. Thể biến đổi
Triệu chứng của thể này cũng tương tự như thể bệnh thông thường, ngoại trừ việc các giai đoạn của phát ban phát triển nhanh chóng hơn và tổn thương mụn mủ là nhỏ hơn. Bệnh đậu mùa thể biến đổi thường gặp ở những bệnh nhân đã được tiêm chủng bị nhiễm bệnh mặc dù đã được chủng ngừa.
Các nốt bỏng nước li ti trên cơ thể trẻ
3. Thể phẳng
Thể này được đặc trưng bởi các mụn mủ vẫn phẳng và thường hợp lưu hoặc bán hợp lưu. Bệnh đậu mùa thể phẳng xảy ra chủ yếu ở trẻ em và thường gây tử vong.
4. Thể xuất huyết
Thể này hiếm gặp, các tổn thương da và niêm mạc trở nên xuất huyết. Các triệu chứng nghiêm trọng, suy tim, chảy máu lan tỏa và ức chế tủy xương thường dẫn đến kết quả tử vong trong vòng ba đến bốn ngày. Phụ nữ mang thai dễ mắc thể bệnh đậu mùa này. Tuy nhiên, thể bệnh đậu mùa xuất huyết rất khó nhận biết trừ khi bệnh nhân đã từng tiếp xúc với người bệnh bị bệnh đậu mùa . Ngoài ra, nhiễm vi khuẩn thứ cấp có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh đậu mùa xuất huyết.
5. Thể không điển hình
Thể này xuất hiện ở những người được tiêm chủng hoặc ở những bệnh nhân miễn dịch một phần do đã bị nhiễm bệnh trước đó. Những bệnh nhân này có sốt nhưng không phát ban. Sự gia tăng hiệu giá kháng thể sau khi sốt cho thấy những bệnh nhân đó đã bị nhiễm virus variola nhưng không phát ban.
Các biện pháp chẩn đoán Bệnh đậu mùa
1. Chẩn đoán lâm sàng
Kể từ khi bệnh đậu mùa được loại trừ vào năm 1979, hầu hết các bác sĩ lâm sàng đã không gặp trường hợp bệnh đậu mùa và do đó, có thể không nhận ra các tổn thương đặc trưng. Tại Hoa Kỳ đã đề xuất cả tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng chính và phụ đối với bệnh đậu mùa trong trường hợp virus variola có thể được sử dụng làm tác nhân khủng bố sinh học . Nếu một chẩn đoán lâm sàng là bệnh đậu mùa đang được xem xét, thì phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa kiểm soát nhiễm trùng thích hợp.
2. Xét nghiệm
Xét nghiệm để xác định chẩn đoán nên được thực hiện ở những bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh đậu mùa cao (tiền triệu chứng sốt, thương tổn đậu mùa cổ điển và các tổn thương trong cùng giai đoạn phát triển.
- Phân lập virus: Có thể phân lập virus từ hầu họng, kết mạc và nước tiểu, cũng như các tổn thương da trước khi hình thành vảy.
- Xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase: Việc xác định phản ứng chuỗi polymerase (PCR) của DNA variola trong bệnh phẩm là cần thiết để xác định chẩn đoán.
- Ngoài ra, chẩn đoán có thể được xác nhận bằng cách nuôi cấy virus đậu mùa từ bệnh phẩm lâm sàng với xác nhận bằng PCR variola.
- Huyết thanh học: Kết quả huyết thanh học có thể chỉ ra nhiễm trùng orthopoxvirus nhưng không chẩn đoán được bệnh đậu mùa. Các kháng thể huyết thanh, xuất hiện vào ngày thứ 6 đến ngày thứ 8 của nhiễm trùng. Hiệu giá kháng thể tăng lên sau hai đến ba tuần có thể chứng minh tình trạng nhiễm virus.
3. Chẩn đoán phân biệt
- Varicella: Ở những bệnh nhân bị nhiễm varicella (thủy đậu), các tổn thương ở các giai đoạn phát triển khác nhau, trong khi ở bệnh đậu mùa, tất cả các tổn thương có hình thái giống nhau. Ngoài ra, những bệnh nhân bị nhiễm varicella thường ít xuất hiện bệnh hơn.
- Bệnh đậu khỉ: Phát ban của bệnh đậu mùa khỉ ở người có thể khó phân biệt với bệnh đậu mùa. Các đặc điểm lâm sàng phân biệt chính là bệnh đậu mùa khỉ có liên quan đến nổi hạch cổ và bẹn, và bệnh nhân ít xuất hiện bệnh hơn so với bệnh nhân đậu mùa.
- Vaccinia: Trường hợp hiếm, bệnh nhân được tiêm phòng với vắc xin bệnh đậu mùa có thể phát triển nhiễm bệnh do chủng virus trong vắc xin, cần phải phân lập virus để phân biệt.
Các biện pháp điều trị Bệnh đậu mùa
1. Chăm sóc hỗ trợ
Phương pháp điều trị chính cho bệnh đậu mùa là chăm sóc hỗ trợ, bao gồm duy trì cân bằng nước và điện giải, chăm sóc da và theo dõi các biến chứng của nhiễm trùng.
2. Liệu pháp kháng virus
- Tecovirimat: Là thuốc kháng virus đầu tiên được chỉ định để điều trị bệnh đậu mùa. Liều khuyến cáo của tecovirimat cho những người nặng ≥40 kg là 600 mg, uống hai lần mỗi ngày. Đối với bệnh nhi nặng từ 25 đến 40 kg, liều là 400 mg x 2 lần / ngày và trẻ em từ 13 đến 25 kg, liều là 200 mg x 2 lần / ngày. Không có khuyến nghị về liều lượng cho trẻ em cân nặng <13 kg. Thời gian điều trị là 14 ngày. Các tác dụng phụ có thể gặp là nhức đầu, buồn nôn và đau bụng.
- Brincidofovir: Là một chất tương tự của cidofovir dùng đường uống. Liều khuyến cáo cho những người nặng ≥48 kg là 200 mg mỗi tuần một lần và uống hai liều, đối với những người có cân nặng từ ≥10 kg đến dưới 48 kg, liều là 4 mg /kg hỗn dịch uống mỗi tuần một lần uống hai liều, đối với trẻ em cân nặng dưới 10 kg, liều là 6 mg /kg hỗn dịch uống mỗi tuần một lần, chia 2 lần. Các tác dụng phụ thường gặp nhất là tiêu chảy, buồn nôn, nôn và đau bụng.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.