Tổng quan Thai chậm phát triển trong tử cung
Đại cương
Thai chậm phát triển trong tử cung (IUGR) là tình trạng thai nhi nhỏ hơn so với thai bình thường, là sự tăng trưởng của thai nhi bị hạn chế ngay khi còn trong bụng mẹ. IUGR được xác định khi các chỉ số đo kích thước và trọng lượng thai dưới đường bách phân vị thứ 10, thứ 5 hoặc thứ 3 (tùy theo tài liệu sử dụng). Thai chậm phát triển trong tử cung chiếm khoảng 5-7% trong tổng số thai kỳ.
Phân loại
Về phân loại, thai chậm phát triển trong tử cung có hai loại:
– IUGR đối xứng: Là khi tất cả các chỉ số, các bộ phận của thai nhi đều chậm phát triển như nhau.
– IUGR không đối xứng: Thường đầu của thai nhi phát triển bình thường, tuy nhiên, các bộ phận còn lại như chiều dài xương đùi, chu vi bụng của thai nhi thì lại chậm phát triển. IUGR không đối xứng thường gặp ở những thai bị suy dinh dưỡng.
Nguyên nhân Thai chậm phát triển trong tử cung
Có nhiều nguyên nhân làm cho thai chậm phát triển trong tử cung. Các tài liệu thường chia thành 3 nhóm nguyên nhân: nguyên nhân từ phía mẹ, từ phía thai và từ phần phụ của thai là rau thai, dây rốn. Trong đó nguyên nhân do rau thai chiếm tỷ lệ cao nhất, hay gặp nhất. Và lý do khi rau thai có vấn đề thì gây thai chậm phát triển là do rau thai chính là phần liên kết giữa mẹ và thai nhi. Rau thai giúp mang oxy và các chất dinh dưỡng đến thai nhi, nuôi dưỡng thai nhi.
Các nguyên nhân từ rau thai bao gồm:
– Trọng lượng bánh rau nhỏ (dưới 350 gam).
– Dây rốn có một động mạch.
– Dây rau bám màng.
– U máu rau thai.
Các nguyên nhân do mẹ, như:
– Mẹ quá trẻ tuổi hoặc lớn tuổi (dưới 16 tuổi và trên 35 tuổi).
Mẹ quá trẻ tuổi hoặc lớn tuổi (dưới 16 tuổi và trên 35 tuổi)
– Mẹ sinh đẻ nhiều lần.
– Các lần sinh quá gần( dưới 6 tháng) hoặc quá xa nhau (trên 10 năm).
– Mẹ có các bệnh lý mạn tính: hen phế quản, tim bẩm sinh, tự miễn, tăng huyết áp, tiểu đường thai kỳ, thận mạn tính, lupus ban đỏ
– Bệnh lý liên quan thai kỳ: tăng huyết áp, tiền sản giật, đái tháo đường, bệnh lý về máu.
– Viêm nhiễm khi mang thai ở mẹ: nhiễm các virus: TORCH, nhiễm khuẩn do vi khuẩn như viêm phổi, viêm đường tiết niệu…
– Mẹ suy dinh dưỡng, tăng quá ít cân trong cả thai kỳ.
– Điều kiện sống thấp, lao động nặng nhọc.
– Mẹ có lạm dụng chất kích thích: rượu, ma túy, hút thuốc lá( kể cả thụ động)…
– Có sử dụng các thuốc: thuốc có bản chất steroid, thuốc chống co giật, thuốc điều trị ung thư, chất chống chuyển hóa…
Các nguyên nhân khác của thai nhi:
– Thai nhi bất thường: bất thường nhiễm sắc thể thường hoặc giới tính như: hội chứng Down, turner, thai đa dị tật.
– Những trường hợp đa thai (nhiều hơn 1 thai): Mẹ mang đa thai được coi là tình trạng thai nghén nguy cơ cao do nguy cơ đẻ non, sinh sớm, mổ đẻ, suy dinh dưỡng thai nhi, nguy cơ thai chậm phát triển và tiền sản giật ở mẹ. Một số nghiên cứu tới khoảng 1/3 thai chậm phát triển gặp trong trường hợp song thai.
Triệu chứng Thai chậm phát triển trong tử cung
Dấu hiệu của thai chậm phát triển trong tử cung thường không có dấu hiệu đặc trưng, thai phụ thường ít khi tự nhận thấy và đa số được phát hiện tình cờ khi đi khám thai. Một số dấu hiệu hay gặp:
– Thai phụ thấy ít tăng cân, đôi khi có kèm thiểu ối.
– Thai phụ có thể mắc một số bệnh lý liên quan tới thai kỳ: tăng huyết áp, đái tháo đường.
Các biện pháp chẩn đoán Thai chậm phát triển trong tử cung
Lâm sàng:
– Thường gặp trên những thai phụ có những bệnh lý như: gan thận, huyết áp cao, tiểu đường.
– Người mẹ thấy tăng cân rất ít hoặc đã được chẩn đoán thiểu ối trước đó.
– Đo bề cao tử cung không thấy tăng hay không phù hợp với tuổi tha. Bề cao tử cung nhỏ hơn tuổi thai 5cm phải nghĩ tới IUGR.
– Không có triệu chứng rõ ràng, đặc hiệu để đưa ra chẩn đoán mà qua các lần thai phụ khám thai định kỳ và theo dõi sự phát triển của thai.
Cận lâm sàng:
– Chẩn đoán thai chậm phát triển trong tử cung bắt buộc dựa vào siêu âm thai, siêu âm Doppler khi đo các chỉ số thai:
+ Đường kính lưỡng đỉnh: Đa số các thai chậm phát triển trong tử cung có chu vi đầu và đường kính lưỡng đỉnh nhỏ hơn so với tuổi thai thực tế.
+ Chiều dài xương đùi: Mặc dù không phải chỉ số đặc hiệu nhưng giúp phân biệt IUGR đối xứng hay không đối xứng.
+ Chu vi vòng bụng: Rất nhiều trường hợp thai phụ không nhớ được ngày đầu kỳ kinh cuối hay dự kiến sinh lúc 12 tuần nên không xác định được tuổi thai thực sự, lúc này không thể dựa vào đường kính lưỡng đỉnh hay chiều dài xương đùi để so tuổi thai. Tuy nhiên, nếu chu vi bụng tăng ít hơn 10 mm trong 2 tuần thì bác sĩ cần nghi ngờ đây là thai chậm phát triển trong tử cung.
+ Trọng lượng thai: Do trọng lượng thai đo đều có sai số nên bác sĩ cần dựa vào biểu đồ tăng trưởng theo tuổi thai để có chẩn đoán chính xác.
+ Doppler động mạch: Trong trường hợp nghi ngờ thai IUGR, bác sĩ siêu âm cần khảo sát động mạch tử cung mẹ để loại trừ tăng trở kháng của động mạch tử cung (mẹ bị tăng huyết áp, tiền sản giật) và doppler mạch não/ rốn thai nhi, tiên lượng sự phát triển của thai.
– Ngoài ra là các xét nghiệm khác đánh giá các bệnh lý của mẹ: sinh hóa máu, đánh giá chỉ số vi chất trong máu mẹ: sắt, calci…
– Các xét nghiệm chuyên sâu để đánh giá bất thường khác của thai như NIPT sàng lọc không xâm lấn hay chọc ối làm nhiễm sắc thể đồ.
Các biện pháp điều trị Thai chậm phát triển trong tử cung
Những biện pháp hỗ trợ điều trị IUGR
– Tăng cường dinh dưỡng, bổ sung chất, vitamin cho bà bầu, uống nhiều nước 2-2,5 lít/ ngày.
– Nghỉ ngơi hợp lý, không lao động quá sức, môi trường làm việc nhẹ nhàng thoáng mát.
– Hướng dẫn thai phụ đếm cử động thai hàng ngày.
– Điều trị các bệnh lý của người mẹ như cao huyết áp, tiểu đường.
– Hướng dẫn thai phụ nằm nghiêng bên trái để tăng cường tuần hoàn mẹ – thai nhi, giúp tăng lượng oxy và các chất dinh dưỡng cho thai.
Hướng dẫn thai phụ nằm nghiêng bên trái để tăng cường tuần hoàn mẹ – thai nhi
– Thai 28 đến hết 34 tuần, bác sĩ có thể cân nhắc sử dụng Cortcoid để trợ phổi: hai loại dùng được là bethamethasone hoặc dexamethasone liều theo khuyến cáo.
– Theo dõi Monitoring với thai > 26 tuần: đánh giá dao động nhịp tim thai và sự biến đổi sóng tim thai.
Điều trị
Khi bác sĩ đánh giá tiền sử sản khoa của mẹ, tình trạng sức khỏe của mẹ và quá trình theo dõi sự phát triển của thai để quyết định có đình chỉ thai nghén khi:
– Với thai trên 31 tuần: Nếu nghi ngờ suy thai: chạy monitor thấy tim thai dao động kém, có xuất hiện những nhịp chậm đơn độc và nhịp chậm kéo dài, tình trạng này lặp lại nhiều lần.
– Khi thai trên 34 tuần: Thai có biểu hiện ngừng phát triển khi Doppler của động mạch rốn tâm trương bằng 0 và xuất hiện bất thường trên phổ Doppler của động mạch não thai nhi.
– Với thai trên 37 tuần: Khi xuất hiện bất thường động mạch não- rốn hoặc monitor tim thai ghi nhận bất thường.
Chỉ định đẻ thường nếu không có chống chỉ định. Những trường hợp như suy thai hoặc yếu tố đẻ khó khác như ngôi ngược, rau bám mép…bác sĩ sẽ chỉ định mổ đẻ. Và thai IUGR nên lấy thai ra luôn cần sự hỗ trợ của ekip hồi sức sơ sinh.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.