HomeBệnh Hay GặpTổng quan Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

Tổng quan Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

- Advertisement -spot_img


Tổng quan Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

Bệnh do Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục là vấn đề sức khỏe toàn cầu với tỷ lệ mắc ngày càng càng cao và biểu hiện lâm sàng đa dạng. Bệnh lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục. Khi mắc bệnh, bệnh nhân thường có các thương tổn như mụn nước, vết loét sau mụn nước vỡ và sưng hạch lympho quanh khu vực thương tổn. Tương tự nhiễm các chủng virus herpes khác, nhiễm HSV có thể xuất hiện thể ẩn và tái hoạt và tái phát sau đó. Hiện tại, bệnh chưa điều trị khỏi được.

Bệnh do Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

Đối tượng mắc bệnh chủ yếu ở người trẻ tuổi, đặc biệt nhóm quan hệ tình dục nguy cơ cao. Lây truyền HSV ở trẻ sơ sinh trong quá trình chuyển dạ có thể tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong; ngoài ra, loét hậu môn sinh dục do HSV làm tăng tỷ lệ lây truyền HIV.

Nguyên nhân Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

Nguyên nhân gây bệnh là Herpes simplex type 1 (HSV-1) và herpes simplex type 2 (HSV-2), thuộc nhóm AND virus. HSV-1 thường gây tổn thương ở da, niêm mạc của mắt, mũi, miệng qua tiếp xúc trục tiếp hoặc nước bọt. HSV-2 thường lây qua quan hệ tình dục, gây tổn thương vùng hậu môn, sinh dục. Tuy nhiên, cả HSV-1 và HSV-2 đều có thể gây loét sinh dục; do biểu hiện kín đáo nên bệnh thường ít khi được phát hiện. Do đó, phần lớn các trường hợp nhiễm HSV có thể lây truyền bệnh cho bạn tình.

Hình ảnh minh họa Herpes simplex type 1&2

Virus HSV có thể tồn tại ở hạch thần kinh sau nhiễm herpes tiên phát và tái hoạt động khi bệnh nhân gặp tình trạng suy giảm miễn dịch, stress, sang chấn,…Phần lớn các trường hợp mắc herpes sinh dục tái đi tái lại thường do HSV-2. Ngoài ra, nhiễm HSV 2 làm tăng nguy cơ mắc HIV, do:

  • Tồn thương loét sinh dục thường xuyên gây nhiễm trùng tại chỗ và tổn thương niêm mạc đường sinh dục, tạo thuận lợi cho HIV xâm nhập.
  • Tổn thương loét sinh dục tập trung các tế bào CD4 ở niêm mạc, là mục tiêu của virus HIV.
  • Phân lập được virus nhân lên ở vị trí tổn thương do HSV 2.
Xem thêm  Tổng quan Lao kê

Triệu chứng Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

Biểu hiện lâm sàng của bệnh do Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục đa dạng, phụ thuộc vào từng giai đoạn, gồm: tiên phát, đợt mắc mới và tái phát.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh do Herpes simplex

Biểu hiện lâm sàng của bệnh do Herpes simplex

  • Nhiễm HSV tiên phát: Tình trạng nhiễm ở bệnh nhân chưa có kháng thể với HSV-1 và HSV-2 trước đó. Thời gian ủ bệnh trung bình của nhiễm herpes vùng sinh dục sau phơi nhiễm 4 ngày (trung bình từ 2 đến 12 ngày). Biểu hiện lâm sàng của nhiễm HSV tiên phát rất đa dạng. Giai đoạn đầu bệnh nhân có thể đau vùng loét sinh dục, tiểu khó, đau vùng hạch bẹn, sốt và đau đầu. Trong khi đó, một số bệnh nhân có triệu chứng nhẹ, thoáng qua, thậm chí không có triệu chứng. Cần phân biệt tiểu khó với bí tiểu cấp tính, xảy ra do mất cảm giác vùng thắt lưng cùng do nhiễm HSV nặng gây viêm rễ thần kinh tủy thắt lưng cùng.

Tổn thương da đặc trưng trong nhiễm HSV là các bọng nước từ 2-4 mm xuất hiện thành đám trên nền ban đỏ. Các mụn nước thành có thể tiến triển thành mụn mủ, vỡ và loét.

  • Đợt mắc mới HSV: Tình trạng nhiễm HSV-1 ở bệnh nhân đã có kháng thể HSV-2 trước đó hoặc ngược lại. Trong trường hợp không phải nhiễm trùng tiến phát, tổn thương thường ít hơn và các triệu chứng ít hơn; có thể do kháng thể của một typ HSV có thể bảo vệ cơ thể với typ còn lại.
  • Tái phát: Đợt tái hoạt động của HSV sinh dục trong đó typ HSV ở tổn thương cùng loại với kháng thể trong huyết thanh. Triệu chứng nhiễm HSV vùng hậu môn sinh dục tái phát thường gặp nhưng thường ít nghiêm trọng. Thời gian tồn tại trung bình của tổn thương là 10 ngày, ngắn hơn nhiễm HSV tiên phát (19 ngày) và thời gian lan truyền của virus là 2 đến 5 ngày. Tái phát thường xảy ra ở bệnh nhân nhiễm HSV 2 và bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
Xem thêm  Tổng quan Bệnh giun xoắn Trichinella

Trên đối tượng suy giảm miễn dịch, thường xảy ra tình trạng tái hoạt động của virus, với biểu hiện lan rộng tổn thương, hình thái tổn thương đa dạng và hình thành các vết loét mạn tính, tái phát; thời gian lan truyền của virus kéo dài.

Các biện pháp chẩn đoán Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

Để chẩn đoán xác định nhiễm Herpes vùng hậu môn sinh dục, cần khai thác tiền sử, triệu chứng lâm sàng (nhiều mụn nước trên nền ban đỏ) và dựa vào các xét nghiệm như: nuôi cấy virus, PCR, miễn dịch huỳnh quang trực tiếp và huyết thanh đặc hiệu.

  • Nuôi cấy virus: Nếu xuất hiện tổn thương sinh dục, có thể lấy dịch phỏng nước để nuôi cấy. Tỷ lệ nuôi cấy dương tính cao nhất ở giai đoạn sớm của bệnh, khi thương tổn là các mụn nước, và giảm nhanh khi thương tổn bắt đầu lành. Tỷ lệ phân lập virus cũng cao hơn khi mắc bệnh lần đầu và thấp hơn khi bệnh tái phát, đặc biệt khi tái phát không triệu chứng.
  • PCR virus: Nếu nuôi cấy virus là tiêu chuẩn chẩn đoán giúp phân lập virus, HSV PCR là phương pháp có độ nhạy cao để xác định nhiễm HSV từ bệnh phẩm dịch vết loét sinh dục và da niêm mạc, dịch não tủy.
  • Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp.
  • Huyết thanh đặc hiệu: Xuất hiện sau vài tuần đầu nhiễm trùng và tồn tại kéo dài.
  • Xét nghiệm chẩn đoán tế bào Tzank: độ nhạy và độ đặc hiệu thấp

chẩn đoán xác định nhiễm Herpes vùng hậu môn sinh dục

Xét nghiệm chẩn đoán xác định nhiễm Herpes vùng hậu môn sinh dục tại MEDLATEC

Cần chẩn đoán phân biệt nhiễm Herpes hậu môn sinh dục với các loét sinh dục khác như giang mai, hạ cam, tổn thương loét do các căn nguyên không nhiễm trùng.

  • Tổn thương trong nhiễm HSV thường số lượng nhiều, nông, vết loét mềm có thể có mụn nước; ngoài ra, nhiễm HSV thường tổn thương tái phát.
  • Tổn thương sinh dục trong giang mai không đau, cứng, đáy vết loét sạch.
  • Tổn thương trong bệnh hạ cam sâu, loét có mủ và thường liên quan đến viêm hạch bẹn.
Xem thêm  Tổng quan Ung thư gan di căn

Các biện pháp điều trị Herpes simplex vùng hậu môn sinh dục

Đa phần các trường hợp nhiễm Herpes simplex sinh dục có thể tự khỏi sau 2 đến 3 tuần. Có thể sử dụng thuốc bôi tại chỗ và thuốc kháng virus để giảm triệu chứng và giảm khả năng lây truyền.

Điều trị tại chỗ: Với tổn thương nhẹ, cơ địa bệnh nhân khỏe mạnh có thể sử dụng dung dịch sát khuẩn (milan, betadin, mỡ tyrosur,…) hoặc bôi acyclovir 6 lần trong ngày (mỗi 3 giờ một lần) trong thời gian 7 ngày ngay khi mụn nước vừa xuất hiện.

Điều trị toàn thân: Có thể lựa chọn một trong các phác đồ sau:

– Acyclovir 400mg, uông 03 viên một ngày hoặc acyclovir 200mg, uống 05 viên một ngày (chia đều liều acyclovir trong ngày) trong thời gian 7 đến 10 ngày.

– Valacyclovir 1g uống ngày 02 lần trong thời gian 7 đến 10 ngày

– Famiciclovir 250mg uống ngày 03 lần trong thời gian từ 5 đến 10 ngày

Trong trường hợp bệnh nhân nhiễm HSV tái phát, chỉ định điều trị khi bệnh nhân có triệu chứng hoặc trong vòng 2 ngày kể từ khi triệu có triệu chứng. Điều trị tương tự như nhiễm HSV tiên phát giúp giảm mức độ và thời gian xuất hiện triệu chứng, nhưng không ngăn ngừa được tình trạng tái phát những lần sau của bệnh. Có thể sử dụng acyclovir 400mg liều 02 viên/ngày liên tục trong 1 năm để tránh tái phát, giảm lây nhiễm HSV.


Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục 2013.
  2. Epidemiology, clinical manifestations, and diagnosis of genital herpes simplex virus infection, Uptodate, 2020
  3. Prevention of gential herpes virus infection, Uptodate, 2020



Theo Medlatec

Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.

- Advertisement -spot_img
Stay Connected
16,985FansLike
2,458FollowersFollow
61,453SubscribersSubscribe
Tin mới
- Advertisement -spot_img
Bài viết liên quan
- Advertisement -spot_img