Tổng quan Bệnh do Bartonella
Bệnh do Bartonella là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Gram âm Bartonella gây ra, bệnh được biết đến với nhiều thể bệnh như bệnh mèo cào (cat scratch disease), u mạch do trực khuẩn (bacillary angiomatosis), viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn do Bartonella,… Véc tơ trung gian truyền bệnh chính là bọ chét, chấy rận, bọ ve,… Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng, đôi khi khó chẩn đoán với các bệnh lý khác. Các phương pháp chẩn đoán căn nguyên Bartonella trong phòng thí nghiệm bao gồm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán, nuôi cấy phân lập vi khuẩn, kỹ thuật PCR,… Các kháng sinh thường được chỉ định điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn này như Doxycyclin, Azithromycin, Gentamicin, Rifampin,…
Bệnh do Bartonella là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Gram âm Bartonella gây ra
Nguyên nhân Bệnh do Bartonella
Bartonella là vi khuẩn Gram âm, hình dạng đa dạng, thuộc phân nhóm α2 của ngành Proteobacteria và có liên quan chặt chẽ với các chi Brucella và Agrobacterium. Có nhiều loài Bartonella gây bệnh ở ngươi trong đó 3 loài hay gặp nhất là B. bacilliformis , B. quintana và B.henselae. Vi khuẩn bắt màu khá kém với phương pháp nhuộm Gram âm, do đó thường sử dụng phương pháp nhuộm đặc biệt để nhận biết vi khuẩn. Trong môi trường nuôi cấy thông thường, vi khuẩn cần một thời gian dài để phát triển.
Trong môi trường tự nhiên, vi khuẩn có thể được tìm thấy ở một số loài động vật có vú bao gồm cả động vật nuôi và động vật hoang dã, bao gồm mèo, chó, các loài chuột,…
Triệu chứng Bệnh do Bartonella
Bệnh do Bartonella có thể biểu hiện toàn thân và nhiều cơ quan của cơ thể với biểu hiện lâm sàng đa dạng. Một số thể bệnh được quan tâm nhiều đó là:
– Bệnh mèo cào: biểu hiện ban đầu thường là biểu hiện trên da gần vị trí vết cắn, vết cào, thời gian xuất hiện thường sau khi bị phơi nhiễm khoảng 3 – 10 ngày. Các thương tổn bao gồm tổn thương mụn nước, ban đỏ và sẩn; mụn mủ, hồng ban đa dạng, ban xuất huyết giảm tiểu cầu,… thường ít gặp hơn.
Bệnh mèo cào
Người bệnh có dấu hiệu thường gặp khác là nổi hạch, vị trí lân cận với vết cắn, vết cào,… Hạch thường sưng trong khoảng 2 tuần của bệnh, đôi khi có thể tồn tại lâu hơn,… Tính chất hạch thường sưng nhiều hạch cùng lúc, ít khi gặp hạch đơn độc, mềm, dễ di động. Bệnh hạch toàn thân thường ít gặp hơn.
Các cơ quan khác ngoài da và hạch có thể bị tổn thương, đó là gan, lách,.. Người bệnh sốt cao kéo dài hoặc sốt thất thường, kèm theo mệt mỏi, gầy sút cân, đau bụng vùng gan, vùng lách. Thăm khám có thể thấy gan to, lách to. Trên siêu âm thấy tổn thương giảm âm ở gan lách, trên CT ổ bụng thấy các ổ hoại tử nhu mô gan, lách.
Triệu chứng ít gặp hơn như viêm dây thần kinh, viêm tủy cắt ngang, xuất huyết võng mạc, đau cơ, đau khớp, viêm khớp, viêm tủy xương,… Trường hợp nặng hơn, người bệnh có thể tổn thương đa cơ quan, xuất huyết giảm tiểu cầu, tăng calci máu thậm chí sốc nhiễm khuẩn.
– Viêm nội tâm mạc do Bartonella: triệu chứng lâm sàng khá tương tự so với các căn nguyên vi khuẩn khác. Người bệnh thường có biểu hiện cấp tính hoặc bán cấp với các triệu chứng như: sốt thất thường, sốt kéo dài, từng cơn sốt rét run, kèm theo mệt mỏi, gầy sút cân, cơ thể suy nhược, biểu hiện thiếu máu, thăm khám nghe thấy tiếng thổi bất thường tại tim. Đa số viêm nội tâm mạc do Bartonella xảy ra trên các van tim tự nhiên, mặc dù tổn thương van tim nhân tạo cũng được báo cáo. Nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm, có thể gây biến chứng thủng van tim và suy tim.
Siêu âm tim thấy hình ảnh sùi van tim, trong đó tổn thương có thể xảy ra cùng lúc nhiều van tim như van động mạch chủ và van hai lá hoặc van động mạch chủ và van ba lá.
– B. Quintana là căn nguyên gây bệnh sốt chiến hào cổ điển đã biết từ lâu. Triệu chứng của bệnh thường cấp tính với các triệu chứng là sốt kéo dài, sốt thất thường, người mệt mỏi, khó chịu, đau đầu, đau nhức cơ xương khớp, nôn, buồn nôn, lách to,…
– Ở bệnh nhân HIV/AIDS: ngày nay dưới sự phát triển của các thuốc ức chế virus HIV (ARV), nhiễm trùng Bartonella đã ghi nhận ít hơn, tuy nhiên ở một số người bệnh bị suy giảm miễn dịch nặng ( AIDS) thường có biểu hiện u mạch do trực khuẩn, tổn thương gan, tổn thương lách, viêm tủy xương, viêm nội tâm mạc và nhiễm khuẩn huyết
Các biện pháp chẩn đoán Bệnh do Bartonella
Chẩn đoán bệnh do Bartonella được chẩn đoán dựa vào các yếu tố bao gồm dịch tễ ( bị mèo cào, cắn,…), các triệu chứng lâm sàng đã mô tả trên và các xét nghiệm chẩn đoán căn nguyên vi khuẩn. Các xét nghiệm đó là:
– Xét nghiệm huyết thanh học: một số cơ sở y tế có thể có xét nghiệm huyết thanh học đối với Bartonella gây bệnh mèo cào. Kháng thể IgM dương tính thường gợi ý tình trạng nhiễm trùng hiện tại, tuy nhiên IgM thường tồn tại trong thời gian ngắn, sau đó được thay thế bằng IgG. Một số người bệnh chức năng hệ miễn dịch kém, xét nghiệm âm tính cũng không loại trừ bệnh. Bên cạnh đó, phản ứng chéo giữa B. henselae và các loài Bartonella khác cũng xảy ra và kết quả dương tính giả cũng xảy ra.
– Nuôi cấy và phân lập vi khuẩn: với các môi trường nuôi cấy vi khuẩn và điều kiện trong phòng thí nghiệm, vi khuẩn Bartonella tương đối khó nuôi cấy và cần thời gian dài để phát triển. Thời gian trả lời kết quả nuôi cấy thường trên 21 ngày. Ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS kết quả nuôi cấy có thể sớm hơn.
– Mô bệnh học: bệnh phẩm sinh thiết da, sinh thiết hạch,… có thể hỗ trợ chẩn đoán.
– Xét nghiệm PCR: thời gian trả kết quả nhanh hơn so với phương pháp nuôi cấy vi khuẩn. Đây là xét nghiệm hứa hẹn và cần nghiên cứu, phát triển thêm.
Chẩn đoán phân biệt bệnh do Bartonella với một số bệnh khác như bệnh cảnh sốt không rõ nguyên nhân, nhiễm trùng do một số căn nguyên khác như bệnh do Rickettisa, Leptosipra, nhiễm khuẩn huyết, bệnh lý hạch do lao, ung thư, tổn thương da trong bệnh lý u mạch khác
Các biện pháp điều trị Bệnh do Bartonella
Các kháng sinh thường được sử dụng để điều trị bệnh do Bartonella như doxycycline, tetracycline, aminoglycoside, nhóm macrolide, ceftriaxone,… Điều trị nhiễm trùng do Bartonella như sau:
Các kháng sinh thường được sử dụng để điều trị bệnh do Bartonella
– Bệnh mèo cào: Trường hợp nhẹ chỉ có biểu hiện tại hạch: dùng azithromycin trong 05 ngày, phác đồ thay thế dùng Rifampin, trimethoprim-sulfamethoxazole , Ciprofloxacin trong 7 – 10 ngày, cân nhắc dùng Coricoid hoặc chọc hút hạch trong những trường hợp đáp ứng kém. Trường hợp nặng hơn có thể kết hợp azithromycin với rifampin * Trưởng hợp bệnh mèo cào tổn thương cơ quan khác: thường kết hợp azithromycin với rifampin hoặc rifampin kết hợp với gentamicin trong khoảng 10 – 14 ngày. * Trường hợp có biến chứng tại mắt, viêm dây thần kinh,…: trẻ nhỏ từ 8 tuổi trở lên thường sử dụng Doxycyclin kết hợp với Rifampin; trẻ dưới 8 tuổi sử dụng Rifampin kết hợp với Azithromycin hoặc trimethoprim-sulfamethoxazole. Thời gian điều trị trung bình từ 10 đến 14 ngày, có thể kéo dài hơn khoảng 4 – 6 tuần nếu có tổn thương thần kinh. Có thể phối hợp Coricoid như Prednisolon 1 mg/kg trong 2 tuần sau đó giảm dần liều đối với trường hợp viêm dây thần kinh
– Nhiễm khuẩn do B. Quintana: không có viêm nội tậm mạc: khuyên dùng doxycycline 200 mg uống một lần mỗi ngày trong bốn tuần cộng với gentamicin 3 mg / kg IV một lần mỗi ngày trong hai tuần đầu Nếu không thể sử dụng gentamicin, thì nên thay thế bằng rifampin 300 mg, uống hai lần mỗi ngày trong hai tuần.
– Viêm nội tâm mạc: nhìn chung viêm nội tâm mạc do Bartonella thường được chỉ định kết hợp doxycyclin hoặc tetracycline phối hợp với nhóm aminoglycosides( ví dụ gentamicin 3 mg/kg/ngày) , thời gian trong 14 ngày, chuyển phác đồ doxycycline uống 100 mg/lần x 2 lần/ ngày trong 6 tuần đến 3 tháng. Trường hợp người bệnh không thể sử dụng doxycyclin hoặc tetracycline , có thể thay thế doxycycline bằng azithromycin 500 mg/ngày. Trường hợp người bệnh không thể sử dụng nhóm aminoglycosides có thể thay thế bằng Rifampin 300 mg/lần x 2 lần/ngày. Trimethoprim-sulfamethoxazole, fluoroquinolones, penicillin và cephalosporin (trừ cephalosporin thế hệ thứ ba) thường không có khuyến cáo trong những trường hợp viêm nội tâm mạc do Bartonella. Chỉ định phẫu thuật tương tự đối với viêm nội tâm mạc do các căn nguyên khác.
– U mạch do trực khuẩn ở người bệnh HIV/AIDS: dùng doxycycline (100 mg uống hoặc tiêm tĩnh mạch hai lần mỗi ngày) cộng với gentamicin (1 mg / kg IV mỗi tám giờ). Gentamicin chỉ được sử dụng trong 14 ngày đầu tiên; doxycycline nên được đưa ra trong ba tháng. Điều trị ức chế dài hạn với macrolide hoặc doxycycline được khuyến cáo cho những bệnh nhân có tiền sử tái phát nhiễm Bartonella và nên tiếp tục điều trị cho đến khi số lượng CD4 tăng lên> 200 tế bào/µL trong ít nhất sáu tháng. Bên cạnh đó, cần điều trị sớm thuốc kháng virus HIV (ARV) ở người bệnh.
1. Nelson CA, Moore AR, Perea AE, Mead PS. Cat scratch disease: U.S. clinicians’ experience and knowledge. Zoonoses Public Health. 2018 Feb;65(1):67-73.
2. Foucault C, Brouqui P, Raoult D. Bartonella quintana characteristics and clinical management. Emerg Infect Dis. 2006 Feb;12(2):217-23
3. Edouard S, Nabet C, Lepidi H. Bartonella, a common cause of endocarditis: a report on 106 cases and review. J Clin Microbiol. 2015 Mar;53(3):824-9. Epub 2014 Dec 24
4. Panel on Guidelines for the Prevention and Treatment of Opportunistic Infections in Adults and Adolescents with HIV. Guidelines for the Prevention and Treatment of Opportunistic Infections in HIV-infected Adults and Adolescents: Recommendations from the Centers for Disease Control and Prevention, the National Institutes of Health, and the HIV Medicine Association of the Infectious Diseases Society of America.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.