Tổng quan Bệnh do Chlamydia psittaci
Bệnh do Chlamydia psittaci (psittacosis, ornithosis) có căn nguyên gây bệnh là vi khuẩn Chlamydia psittaci; lây truyền bệnh cho con người chủ yếu từ loài chim. Bệnh có thể có biểu hiện toàn thân. Bệnh do Chlamydia psittaci có ở khắp các khu vực trên thế giới, bao gồm Mỹ, Anh, châu Âu, khu vực Trung Đông và Australia. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh chính xác của bệnh do Chlamydia psittaci còn chưa rõ ràng do thiếu các xét nghiệm thường quy cũng như tính đồng nhất của các xét nghiệm chẩn đoán. Khi mắc bệnh, bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng đa dạng, từ không triệu chứng đến suy đa tạng, dẫn đến tử vong. Phụ nữ có thai mắc bệnh do Chlamydia psittaci có thể gây nguy hiểm tính mạng, gây sảy thai.
Hình ảnh minh họa Chlamydia psittaci (psittacosis, ornithosis)
Nguyên nhân Bệnh do Chlamydia psittaci
Căn nguyên gây bệnh psittacosis là Chlamydia psittaci, là vi khuẩn nội bào bắt buộc. Hiện tại, có 10 kiểu gen đã biết dựa trên giải trình tự gen của lớp protein bên ngoài của vi khuẩn – ompA. Mỗi kiểu gen sở hữu đặc điểm và độc lực riêng; đôi khi, có sự trùng hợp giữa các kiểu gen.
Sau khi bị người bệnh hít phải, vi khuẩn Chlamydia psittaci sẽ xâm nhập vào tế bào biểu mô đường hô hấp và nhân lên. Hình ảnh đại thể cho thấy có tổn thương thủy phổi, thường xuất huyết. Trên hình ảnh vi thể có thể thấy dịch tiết gồm fibrin, bạch cầu đa nhân và xuất huyết; khoảng kẽ thâm nhiêm cả bạch cầu đa nhân và lympho bào. Vi khuẩn Chlamydia psittaci tác động lên cả phế quản, phế nang và cả thùy phổi. Có thể có hoại tử biểu mô phế quản, huyết khối mao mạch, hoại tử phế nang.
Chlamydia psittaci sẽ xâm nhập vào tế bào biểu mô đường hô hấp và nhân lên
Triệu chứng Bệnh do Chlamydia psittaci
Bệnh do Chlamydia psittaci thường xuất hiện ở người trẻ và độ tuổi trung niên, với biểu hiện sốt đột ngột, đau đầu rõ rệt và ho khan. Đôi khi, nhiễm bệnh do Chlamydia psittaci có thể không có triệu chứng. Bệnh nhân nhiễm Chlamydia psittaci thường có tiền sử tiếp xúc với loài chim trước đó. Thời gian ủ bệnh từ 5 đến 14 ngày, nhưng có thể kéo dài đến 39 ngày. Các triệu chứng ít gặp hơn gồm có viêm họng, tiêu chảy và thay đổi ý thức.
Biểu hiện sốt đột ngột, đau đầu rõ rệt và ho khan
Khi thăm khám, phần lớn bệnh nhân có tổn thương phổi, nghe phổi có rale; đôi khi có thể phát hiện tràn dịch màng phổi, gan, lách to. Trong trường hợp nặng, bệnh nhân nhiễm Chlamydia psittaci có thể có các biến chứng toàn thân như suy hô hấp, suy thận, rối loạn đông máu, tổn thương hệ thần kinh trung ương (như viêm màng não, viêm não, hội chứng Guillain-Barre,…), viêm khớp phản ứng, tiêu cơ vân cấp, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim,…
Phụ nữ có thai nhiễm Chlamydia psittaci có thể nguy hiểm đến tính mạng, đặc biệt ở tháng thứ hai và thứ ba của thai kỳ. Các biến chứng như suy thận, suy gan và rối loạn đông máu có thể khiến thai phụ tử vong. Vi khuẩn có thể qua rau thai và gây suy thai trong tử cung.
Các biện pháp chẩn đoán Bệnh do Chlamydia psittaci
Bệnh nhân cần nghĩ đến chẩn đoán bệnh do Chlamydia psittaci khi có biểu hiện lâm sàng đặc hiệu (sốt, đau đầu, đau mỏi cơ, ho khan) và có tiền sử tiếp xúc với chim. Nếu bệnh nhân có biểu hiện viêm phổi, đau đầu nhiều, lách to và không đáp ứng với điều trị kháng sinh nhóm beta-lactam cũng góp phần gợi ý chẩn đoán.
Các xét nghiệm giúp chấn đoán bệnh do Chlamydia psittaci, bao gồm:
- Huyết thanh chẩn đoán: Do nuôi cấy vi khuẩn thường khó và nguy hiểm, huyết thanh chẩn đoán là phương pháp chủ yếu để chẩn đoán bệnh do Chlamydia psittaci. Có hai phương pháp chẩn đoán huyết thanh gồm phản ứng vi miễn dịch huỳnh quang và phản ứng cố định bổ thể. Phản ứng cố định bổ thể có thể ứng dụng rộng rãi nhưng không thể phân biệt các chủng Chlamydia với nhau. Ngược lại, phản ứng vi miễn dịch huỳnh quang có độ nhạy và độ đặc hiệu cao với C.psittaci nhưng chỉ có thể làm ở các phòng xét nghiệm đặc hiệu.
Xét nghiệm PCR phát hiện C.psittaci
- Kỹ thuật kháng thể đơn dòng: Kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp có thể ứng dụng để làm test nhanh.
- Xét nghiệm PCR phát hiện C.psittaci
- Nuôi cấy vi khuẩn Chlamydia psittaci từ bệnh phẩm đờm, dịch màng phổi, bệnh phẩm sinh thiết tạng thường không được khuyến cáo, trừ khi ở phòng xét nghiệm chuyên biệt do nguy cơ cao khi nuôi cấy và lây truyền qua giọt bắn.
- Xét nghiệm công thức máu thường có số lượng bạch cầu bình thường; nhưng xét nghiệm máu lắng và CRP thường tăng.
- Xquang phổi thường có tổn thương ở thùy phổi; đôi khi có tràn dịch màng phổi. Trên phim chụp CT ngực, có thể thấy hình ảnh kính mờ.
- Dịch não tủy: Có thể có tăng protein dịch não tủy.
Cần chẩn đoán phân biệt bệnh do Chlamydia psittaci với các căn nguyên gây viêm phổi không điển hình khác (gồm nhiễm Chlamydia pneumonia, Mycoplasma pneumonia và Legionella). Nếu bệnh nhân chỉ có sốt mà không có các dấu hiệu khu trú, triệu chứng cúm, viêm màng ngoài tim, viêm mạch, cần chẩn đoán phân biệt với nhiễm Coxiella burnetti, nhiễm Leptospira,…Ngược lại, với trường hợp biểu hiện ngoài phổi là chủ yếu, cần phân biệt với các căn nguyên gây viêm dạ dày ruột, viêm gan, viêm não, màng não,….
Các biện pháp điều trị Bệnh do Chlamydia psittaci
Kháng sinh nhóm tetracycline được ưu tiên trong điều trị nhiễm Chlamydia psittaci; tuy nhiên, cũng có thể lựa chọn thay thế bằng macrolide trong trường hợp viêm phổi cộng đồng và không có bằng chứng vi sinh.
Kháng sinh nhóm tetracyclines: Với trường hợp bệnh nhân mắc bệnh Chlamydia psittaci ở mức độ nhẹ đến vừa, có thể lựa chọn doxycycline đường uống (100mg/lần x 02 lần/ngày) hoặc dùng đường tĩnh mạch trong những trường hợp bệnh nhân nặng. Thời gian điều trị thường từ 7 đến 10 ngày.
Kháng sinh nhóm macrolides (như erythromycin, azithromycin,…) thường được lựa chọn thay thế khi bệnh nhân có chống chỉ định với tetracyclines, và tình trạng bệnh nhẹ và trung bình. Thời gian điều trị trong 5 ngày.
Ngoài ra, có thể sử dụng các kháng sinh như chloramphenicol, rifampin, ofloxacin để điều trị bệnh do Chlamydia psittaci.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.