Tổng quan Lao xương khớp
Bệnh lao xương khớp là một bệnh do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra tại hệ thống xương khớp của cơ thể con người. Bên cạnh lao phổi, lao xương là một trong các bệnh lao ngoài phổi khá phổ biến, xếp sau lao màng phổi và lao bạch huyết.
Ngay từ đầu bệnh nhân sẽ không bị mắc lao xương khớp mà thường bị bệnh sau khi đã bị mắc lao phổi. Vi khuẩn lao qua đường không khí, xâm nhập và gây bệnh tại phổi sau đó đi theo đường máu hay đường bạch huyết đến các cơ quan khác, trong đó nó có thể khu trú ở xương gây nên bệnh lao xương khớp.
Bất kỳ độ tuổi nào cũng có thể mắc lao xương khớp và thường gặp nhất là lứa tuổi từ 20 – 40. Những vị trí như cột sống, hông và gối là những nơi hay bị lao xương nhất. Trong đó hai bộ phận đĩa đệm thắt lưng và thân đốt sống ở cột sống lại là những vị trí dễ bị vi khuẩn lao tấn công và lây bệnh nhất. Các bộ phận khác như đốt sống cổ, xương cùng cũng có thể bị nhiễm lao. Còn xương ức, xương sườn, xương bàn tay, bàn chân, xương đùi, xương chậu,… thì ít bị hơn.
Trong nhiều trường hợp, lao xương khớp không chỉ cố định tại một vị trí mà còn có thể đồng thời xảy ra ở nhiều vị trí khác nhau, khi đó ta gọi là bị lao xương đa ổ.
Có một điều đáng lưu ý đó là bệnh lao, bao gồm bệnh lao xương khớp có liên quan chặt chẽ với bệnh HIV/AIDS. Vì căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS khiến cho hệ miễn dịch ở người bị suy giảm, đó chính là cơ hội để các loại vi khuẩn, trong đó có vi khuẩn lao tấn công vào cơ thể. Ở những nước mà có tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS cao thì xu hướng bệnh nhân mắc lao cũng tăng lên tại các khu vực này.
Xét về mặt vi thể, có thể chia lao xương thành 2 loại:
- Loại hoại tử tiết dịch hình thành nên các áp xe lạnh;
- Loại hoại tử tối thiểu, tăng trưởng nhanh (u lao hạt).
Số liệu về bệnh lao xương khớp:
– Lao xương khớp chiếm 10% tổng số bệnh lao ngoài phổi tại Hoa Kỳ;
– Tỷ lệ các vị trí mắc lao xương khớp:
- Có 60 – 70% trường hợp bị mắc lao cột sống;
- Có 10 – 15% bệnh nhân bị lao khớp gối;
- Có 5 – 10% bị lao khớp cổ chân;
- Có khoảng 5% số người bị lao khớp bàn chân.
Nguyên nhân Lao xương khớp
Trong mọi bệnh lý về lao, thủ phạm gây bệnh không ai khác chính là trực khuẩn lao có tên khoa học là Mycobacterium tuberculosis. Vi khuẩn lao có thể tồn tại trong môi trường hoặc từ người bệnh phát tán ra ngoài lây nhiễm cho cộng đồng.
Mycobacterium tuberculosis gây bệnh lao xương khớp
Nếu hệ miễn dịch của cơ thể bị yếu không đủ sức chống lại vi khuẩn lao, khi vào đến phổi chúng sẽ khu trú, sinh sôi nảy nở ở đó. Tệ hơn, vi khuẩn lao sau khi làm tổn thương phổi, chúng có thể di chuyển theo đường máu và bạch huyết, gây bệnh ở những cơ quan khác (xương khớp, não, hệ sinh dục, hệ tiết niệu, mắt, tai, da,…).
Tại các bộ phận thuộc hệ xương khớp, vi khuẩn lao bắt đầu thiết lập “cuộc sống mới”, tạo nên những củ lao. Trung tâm củ lao là vùng hoại tử được bao bọc bởi các biểu mô, tế bào đơn nhân, tế bào khổng lồ. Những nơi chúng ưu tiên xâm lược đầu tiên đó là các xương lớn, xốp, đóng vai trò nâng đỡ trọng lượng cơ thể khiến cho khung nâng đỡ của cơ thể bị tàn phá và tổn thương nghiêm trọng.
Triệu chứng Lao xương khớp
Ở giai đoạn đầu, bệnh lao xương khớp thường không biểu hiện hoặc có rất ít triệu chứng rõ ràng gây nhiều khó khăn trong việc chẩn đoán bệnh. Chỉ khi đến giai đoạn tiến triển, có các dấu hiệu lâm sàng thì lao xương mới được phát hiện.
Triệu chứng bệnh lao xương khớp
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh:
- Người bệnh xuất hiện triệu chứng sốt dai dẳng, có thể từ sốt nhẹ đến sốt vừa, sốt về buổi chiều tối;
- Người mệt mỏi, xanh xao, biếng ăn, sụt cân, hay bị đổ mồ hôi trộm;
- Những vị trí xương khớp bị vi khuẩn xâm nhập sẽ có dấu hiệu sưng to, cứng tuy nhiên không đỏ, không nóng, không viêm;
- Các ổ áp xe hình thành do lao xương thường có mủ bên trong, bị hoại tử bã đậu, viêm tủy xương, thân xương chứa các mảnh xương chết. Khi khám lâm sàng sẽ phát hiện ra nốt bùng nhùng bên cạnh khớp. Nếu ổ áp xe vỡ ra sẽ để lại lỗ dò;
- Đau xương, cơ thể vận động khó khăn. Tuỳ thuộc vào vị trí bị lao xương mà bệnh nhân sẽ cảm thấy đau ở vị trí đó, ví dụ: nếu bị lao xương háng thì đau háng, không thể co duỗi chân bình thường, lao xương cột sống thì không thể ngửa người ra hoặc cúi người xuống,…;
- Các biểu hiện khác: gù – vẹo – gấp khúc cột sống, teo các cơ vận động, đi lệch người hoặc tập tễnh, liệt, tàn phế, ổ áp xe chèn ép tủy sống gây rối loạn cơ tròn.
Các biện pháp chẩn đoán Lao xương khớp
Chẩn đoán dựa trên các biểu hiện lâm sàng của người bệnh. Mặc dù ở giai đoạn đầu bệnh còn mơ hồ nhưng cũng giúp ích phần nào cho bác sĩ định hướng;
- Chụp X-quang phổi, cột sống hoặc các vị trí xương bị tổn thương để phát hiện nhiễm trùng;
- Chọc hút mẫu bệnh phẩm lấy từ vị trí lao xương và soi vi khuẩn lao;
- Chụp CT và MRI: Các biện pháp chẩn đoán hình ảnh giúp quan sát và đánh giá được tình trạng của xương, đồng thời phát hiện ra những biến chứng do bệnh gây nên;
Chụp cộng hưởng từ MRI giúp chẩn đoán bệnh lý lao xương khớp
- Xét nghiệm Mantoux;
- Xét nghiệm công thức máu, đo tốc độ lắng máu.
Các biện pháp điều trị Lao xương khớp
Việc phát hiện và chẩn đoán sớm giúp ích rất nhiều trong công tác điều trị bệnh lao xương khớp, khi đó bệnh nhân sẽ được áp dụng đúng phác đồ điều trị và hạn chế sự phát triển của bệnh cũng như những biến chứng nghiêm trọng về sau. Nếu bệnh nhân tuân thủ điều trị theo chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ thì bệnh lao xương khớp có cơ hội được chữa khỏi hoàn toàn.
Mục đích trong điều trị lao xương khớp:
- Giảm đau do các triệu chứng của vi khuẩn lao gây nên;
- Điều trị khu vực bị nhiễm trùng và loại bỏ vi khuẩn lao;
- Phục hồi và bảo tồn chứng năng của hệ xương khớp và thần kinh;
- Ngăn ngừa, phòng chống những biến chứng.
Có thể áp dụng các biện pháp điều trị như sau:
- Hoá trị (bằng cách dùng thuốc): Đây là biện pháp điều trị dựa trên nguyên nhân gây bệnh. Phác đồ điều trị bao gồm kết hợp các loại thuốc với nhau trong thời gian từ 6 – 18 tháng. Tại thời gian đầu, bệnh nhân sẽ được theo dõi, giám sát tại nhà để đảm bảo tuân thủ theo phác đồ điều trị, đồng thời tránh lây lan vi khuẩn lao ra ngoài cộng đồng. Phần lớn người bệnh đều đá ứng với biện pháp hoá trị nhưng cũng có những trường hợp khác thuốc, yêu cầu cần thay thế bằng phương pháp điều trị khác hiệu quả hơn.
- Nghỉ ngơi: Khi bắt đầu áp dụng điều trị, bệnh nhân cần được nghỉ ngơi lại sức từ 4 – 5 tuần. Khuyến khích người bệnh nên nằm giường cứng để mang lại hiệu quả cao hơn so với nằm giường nệm.
- Vật lý trị liệu: bệnh nhân có thể tập vận động dần dần để tránh bị cứng khớp sau thời gian 4 – 5 tuần nghỉ ngơi tương đối.
- Thực hiện phẫu thuật: được chỉ định cho những trường hợp không đáp ứng với điều trị nội khoa và tập phục hồi chức năng, hoặc bệnh nhân phải chịu biến chứng như biến dạng xương khớp, xuất hiện ổ áp xe lớn, vận động bị hạn chế nhiều,… ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và công việc của người bệnh.
- Bệnh lao xương | Vinmec
- Biến chứng của lao xương và cách chữa trị | Vinmec
- Các phương pháp điều trị lao xương hiệu quả nhất | BVĐK MEDLATEC
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.