Tổng quan Lao thận
Lao thận là một dạng bệnh do vi khuẩn lao gây ra và hầu hết các trường hợp mắc bệnh là do tình trạng lây nhiễm từ lao phổi. Vi khuẩn lao có khả năng di chuyển từ phổi đến các vùng cơ quan khác nhau trong cơ thể để xâm nhập và gây tổn thương, thận cũng không phải ngoại lệ.
Bệnh lao thận còn được biết đến như một căn bệnh nguy hiểm của nam giới trong độ tuổi từ 20 – 45 tuổi (số ca mắc bệnh lao thận ở nam giới cao hơn rất nhiều lần so với nữ giới). Bệnh phát triển một cách âm thầm rất khó phát hiện sớm, tình trạng bệnh ban đầu sẽ xuất hiện ở 1 bên gây tổn thương hay thậm chí phá hủy toàn bộ chức năng 1 bên thận. Vi khuẩn lao sau đó sẽ nhanh chóng lây lan sang bên còn lại nếu người bệnh không được kịp thời chữa trị.
Ngoài những tổn thương đến thận thì người bệnh còn có nguy cơ mắc phải các bệnh lao ở những vùng cơ quan khác do vi khuẩn lao lây lan tới.
Hình ảnh bệnh lao thận
Nguyên nhân Lao thận
Vi khuẩn lao có thể sống trong cơ thể nhưng hoàn toàn không phát bệnh gây hại cho người bệnh (dạng tiềm ẩn của bệnh lao). Tuy nhiên, chúng sẽ lập tức hoạt động cực mạnh khi cơ thể bị suy yếu, sức đề kháng giảm, người bệnh đang mắc phải các bệnh lý về đường hô hấp khác,… Khả năng lây lan vi khuẩn lao giữa các cơ quan trong cơ thể cũng rất cao (đặc biệt là phần phủ tạng), hoạt động của chúng lại khá âm thầm nhưng lại gây tổn thương lớn tới các cơ quan chúng gây bệnh.
Hầu hết trường hợp bệnh lao thận xuất hiện do hậu quả từ bệnh lao phổi. Cụ thể thì trong phổi người bệnh lao có chứa một loại trực khuẩn có thể di chuyển đến thận để gây bệnh đó là Mycobacterium tuberculosis. Loại trực khuẩn này sẽ theo đường máu hoặc bạch huyết di chuyển đến thận gây ra các tổn thương đến nhu mô ở thận. Tại môi trường ưu trương trong các cấu trúc của cầu thận, khi các tế bào thực bào bị suy yếu chức năng tiêu diệt vi khuẩn gây hại thì các trực khuẩn lao sẽ dễ dàng phát triển và dần lây lan sang các cơ quan lân cận.
Mặc dù khả năng cả hai thận đều bị trực khuẩn xâm nhập là như nhau, thế nhưng hầu hết các trường hợp người bệnh phát hiện và điều trị đều ở dạng lao thận 1 bên.
Triệu chứng Lao thận
Ngay khi người bệnh bị các vi khuẩn lao xâm nhập vào vùng thận để gây hại thì đối tượng bị tổn thương đầu tiên sẽ là các nhóm nhu mô. Ở giai đoạn đầu tiên này thì các triệu chứng bệnh thường chưa xuất hiện rõ ràng mà chỉ âm thầm phát triển. Chỉ tới lúc lao thận đã có triệu chứng lây lan sang các vùng cơ quan lân cận khác như hệ tiết niệu hay cơ quan sinh dục thì người bệnh mới bắt đầu cảm nhận được sự thay đổi bất thường từ cơ thể.
Triệu chứng ở người lao thận
Những triệu chứng bệnh ban đầu sẽ là tiểu rắt, đi tiểu nhiều lần (đặc biệt xuất hiện nhiều vào ban đêm), người bệnh luôn có cảm giác buồn tiểu tiện nhưng mỗi lần đi tiểu số lượng ít, tiểu xong bệnh nhân vẫn có cảm giác mót tiểu. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do tình trạng viêm, phù nề gây tắc niệu quản, nước tiểu lại bị giữ lại trong bể thận, thành bàng quang dày lên do viêm, hoặc xuất hiện sỏi tiết niệu.
Tiểu buốt là triệu chứng thường gặp trong lao đường tiết niệu (buốt vùng tiết niệu, buốt lan sang 2 bên đùi và lan rộng lên trên ổ bụng). Màu sắc nước tiểu trường hợp lao thận giai đoạn nhẹ mới chỉ bị vẩn đục, còn trường hợp nặng hơn có thể tiểu ra kèm máu. Trong lao thận, vi khuẩn lao có thể dễ dàng lây lan xuống bàng quang và niệu quản, niệu đạo gây ra triệu chứng trên.
Một số triệu chứng lao thận cũng sẽ tương tự như các bệnh về lao khác: Sốt, ho, sụt cân nhanh, thường xuyên ra mồ hôi vào ban đêm,…
Các biện pháp chẩn đoán Lao thận
Ngay khi người bệnh xuất hiện các triệu chứng đầu tiên có nghi ngờ do bệnh lao gây ra thì đừng chần chừ mà không tìm tới các cơ sở y tế uy tín để khám chữa bệnh. Tuyệt đối không tùy tiện mua thuốc về nhà tự điều trị khi chưa có sự hướng dẫn từ các y bác sĩ có chuyên môn.
Đầu tiên các bác sĩ sẽ tìm hiểu về tiền sử mắc bệnh của người bệnh cũng như các triệu chứng lâm sàng hiện có để xác định thực hiện các biện pháp chẩn đoán bệnh hợp lý. Một số xét nghiệm để chẩn đoán lao như sau:
Thử phản ứng lao tố (hay phương pháp xét nghiệm lao qua da): Đây là phương pháp xét nghiệm nguy cơ bệnh lao qua da rất phổ biến. Bác sĩ sẽ tiêm một lượng nhỏ loại dung dịch có tên tuberculin vào trong lớp da vùng cánh tay, sau khoảng 48 giờ đồng hồ các bác sĩ sẽ kiểm tra các dấu hiệu bất thường từ vùng da được tiêm và đưa ra các biện pháp thực hiện tiếp theo.
- Nếu kết quả kiểm tra ra dương tính đồng nghĩa với việc người bệnh đã bị nhiễm lao vì vậy cần cần được điều trị ngay mà không cần thử các xét nghiệm khác nữa.
- Trong trường hợp xét nghiệm ra kết quả âm tính thì khả năng cao người bệnh không có nguy cơ bị nhiễm lao. Tuy nhiên, để chắc chắn hơn thì đôi khi các bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện thêm các xét nghiệm khác nữa.
Xét nghiệm máu: Phương pháp này nhằm xác định phản ứng của hệ miễn dịch người bệnh với vi khuẩn lao có mạnh mẽ hay không. Loại xét nghiệm này được gọi là xét nghiệm phóng thích interferon-gamma (hay xét nghiệm IGRAs):
Xét nghiệm interferon-gamma phát hiện ra lao thận
- Kết quả xét nghiệm IGRAs dương tính: Người bệnh bị nhiễm lao và cần được điều trị ngay, không cần thực hiện các xét nghiệm khác.
- Kết quả xét nghiệm IGRAs âm tính: Nguy cơ bệnh nhân nhiễm lao là không có tuy nhiên người bệnh vẫn có thể được chỉ định kiểm tra thêm với các xét nghiệm khác.
Phương pháp xét nghiệm IGRAs có 2 loại xét nghiệm là: T-SPOT®.TB test (T-Spot) và QuantiFERON®–TB Gold In-Tube test (QFT-GIT). Ưu điểm của loại xét nghiệm này là không mất quá nhiều thời gian chờ đợi như phương pháp xét nghiệm qua da.
Xét nghiệm qua hình ảnh kết hợp với dịch tễ học: Phương pháp này là sự kết hợp giữa việc chụp X-quang hoặc chụp CT và sau đó kiểm tra mẫu đàm từ người bệnh.
- Khi hình ảnh chụp X-quang hoặc chụp CT cho thấy trong vùng phổi có các đốm trắng và các biến đổi về phổi do vi khuẩn lao tác động, bệnh nhân được chỉ định xét nghiệm dịch tễ để xác định sự xâm nhập của lao.
- Mẫu đàm, hay được hiểu là chất nhầy được bệnh nhân ho ra sẽ được xét nghiệm tìm kiếm vi khuẩn lao. Không chỉ xác định được tình trạng bệnh nhân có phải do lao gây ra hay không mà xét nghiệm đàm còn cho thấy các chủng lao hiện có, các loại thuốc sẽ được chỉ định điều trị phù hợp nhất.
Mặc dù phương pháp này có khả năng đưa ra phương hướng điều trị bệnh phù hợp nhất thế nhưng thời gian chờ đợi kết quả lại khá lâu (từ 4 – 8 tuần). Chính vì vậy, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng người bệnh mà các bác sĩ sẽ đưa ra phương pháp chẩn đoán bệnh hợp lý nhất hoặc kết hợp nhiều phương pháp cùng lúc.
Tại bệnh viện đa khoa Medlatec, bệnh nhân nghi ngờ lao thận sẽ được làm xét nghiệm Quantiferon TB Gold Plus, chụp CT 128 dãy hệ tiết niệu, chụp cộng hưởng từ hệ tiết niệu, sinh thiết thận,… để chẩn đoán lao.
Các biện pháp điều trị Lao thận
Phương pháp điều trị bệnh lao thông thường là sử dụng thuốc đặc trị kết hợp với một số loại thuốc điều trị các triệu chứng bệnh gây ra. Tùy thuộc vào loại vi khuẩn lao mà thuốc đặc trị bệnh lao cũng sẽ được bác sĩ chỉ định liều lượng và loại thuốc khác nhau.
Điều trị bệnh lao có thể kéo dài từ 6 – 9 tháng trong điều kiện sức khỏe người bệnh khá tốt sẽ được chữa trị khỏi. Chính vì vậy, để có được kết quả điều trị tốt nhất thì người bệnh cần tuân thủ mọi hướng dẫn từ bác sĩ chuyên môn đồng thời kết hợp bảo vệ sức khỏe bản thân cũng như sức khỏe những người thân xung quanh, hạn chế nguy cơ truyền nhiễm bệnh.
Bệnh nhân có thể được điều trị tại nhà và thực hiện đúng quy trình mà bác sĩ điều trị đưa ra. Người bệnh cần được cách ly ở phòng riêng biệt, ăn uống và sinh hoạt tuyệt đối không chung với ai, chế độ dinh dưỡng cũng cần cung cấp đầy đủ nhằm năng cao sức đề kháng,… Trong nhiều trường hợp bệnh lao đã tiến triển nghiêm trọng thì bác sĩ sẽ chỉ định điều trị tại bệnh viện.
Tài liệu tham khảo:
- Tìm hiểu về lao thận | Cơ quan trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
- Phòng ngừa và điều trị bệnh lao thận hiệu quả | Sức khỏe và đời sống – cơ quan ngôn luận của bộ Y Tế
- Bệnh lao thận: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị | Cổng thông tin sức khỏe
- Lao thận có nguy hiểm không? | Sở y tế Hòa Bình
- Bệnh Lao | Bệnh viện FV
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.