Tổng quan Bệnh Lyme
Nguyên nhân gây ra bệnh Lyme là do một loại xoắn khuẩn hình quả xoan có tên gọi khoa học là Borrelia burgdorferi. Loại xoắn khuẩn này ký sinh trên bọ chét và những con bọ này sống trên cơ thể động vật, sau đó lây bệnh sang người thông qua những vết đốt.
Bệnh Lyme do một loại xoắn khuẩn hình quả xoan có tên gọi khoa học là Borrelia burgdorferi lây bệnh sang người thông qua những vết đốt
Khu vực châu Á là nơi hoành hành của bệnh Lyme. Theo như báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) thì mỗi năm trên thế giới có khoảng 300.000 được chẩn đoán mắc bệnh Lyme. Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh Lyme được cho là cao hơn gấp 6 lần so với số người nhiễm HIV/AIDS, và cao hơn gấp 1,5 lần số bệnh nhân nữ mắc ung thư vú. Mùa cao điểm của bệnh Lyme bùng phát thường vào tháng 6 đến tháng 10 hàng năm, nhưng cũng có khi bệnh xuất hiện quanh năm.
Nguyên nhân Bệnh Lyme
Trên thực tế các loại vi khuẩn gây bệnh Lyme phân bố tại các khu vực khác nhau trên thế giới. Ví dụ như bệnh Lyme tại Hoa Kỳ là do vi khuẩn Borrelia mayonii và Borrelia burgdorferi gây nên, còn tại khu vực châu Á và châu Âu thì là do 2 loại Borrelia garinii và Borrelia afzelii lây truyền bệnh Lyme.
Trên cơ thể hươu nai thường chứa các con bọ chét mang mầm bệnh, thông qua các vết cắn, bọ chét sẽ lây bệnh cho con người. Sau khi xâm nhập qua da, vi khuẩn sẽ đi vào máu và thông thường những con bọ chét này phải mất từ 36 – 48 giờ để gắn trên cơ thể người thì sẽ có đủ thời gian cũng như khả năng truyền bệnh Lyme. Do đó, việc phát hiện và loại bỏ bọ chét trên da càng sớm sẽ càng có cơ hội ngăn ngừa mắc bệnh Lyme.
Triệu chứng Bệnh Lyme
1. Biểu hiện sớm
Khi bị bọ chét đốt, trên da chúng ta có thể xuất hiện một vết cắn sưng nhỏ, có màu đỏ rất giống vết đốt của muỗi và không phải là một dấu hiệu điển hình của riêng bệnh Lyme. Tuy nhiên các biểu hiện sau đây có thể xuất hiện trong vòng 1 tháng kể từ khi chúng ta bị nhiễm bệnh:
– Phát ban: thường xảy ra từ 3 – 30 ngày sau khi bị bọ cắn. Ban đỏ lan chậm trên cơ thể trong nhiều ngày, và phạm vi lan rộng có thể lên đến 12 inch (tầm 30cm). Các vết ban thường không gây đau hoặc ngứa, nhưng khi chạm vào có thể thấy âm ấm.
– Các dấu hiệu khác: cơ thể mệt mỏi, sốt, ớn lạnh, nhức đầu, đau nhức mỏi cơ, sưng hạch và cứng cổ có thể kèm theo với biểu hiện phát ban.
Ban đỏ lan chậm trên cơ thể trong nhiều ngày, và phạm vi lan rộng có thể lên đến 12 inch
2. Các biểu hiện ở giai đoạn muộn hơn
Nếu không điều trị các dấu hiệu sớm sẽ khiến cho các triệu chứng khác có cơ hội xuất hiện thêm trong vài tuần hoặc vài tháng tiếp theo. Cụ thể như sau:
– Phát ban lan rộng sang những bộ phận khác trên cơ thể.
– Đau khớp: các cơn đau và sưng viêm khớp nghiêm trọng có thể xảy ra ở vị trí đầu gối hoặc chuyển dần sang những khớp khác.
– Gặp vấn đề về thần kinh: trong vòng vài tuần, vài tháng hoặc có khi tới vài năm sau khi bị nhiễm khuẩn, người bệnh có thể phải đối mặt với chứng tê liệt tạm thời một bên mặt, viêm màng não, tê bì hoặc yếu chân tay, hạn chế trong cử động cơ bắp.
3. Các biểu hiện ít gặp hơn
Có những trường hợp bệnh nhân sau vài tuần bị nhiễm khuẩn lại phát hiện những bệnh như:
– Viêm gan.
– Viêm mắt.
– Các vấn đề bất thường về tim như nhịp tim không đều.
– Mệt mỏi nặng.
Nếu bạn nghi ngờ bản thân đã bị bọ chét cắn, đồng thời xuất hiện những biểu hiện đặc trưng của bệnh Lyme, đặc biệt là bạn cũng đang sống trong vùng lưu hành bệnh thì hãy chủ động đi khám. Việc phát hiện và điều trị sớm sẽ đem lại hiệu quả cao và cơ hội hồi phục lớn hơn rất nhiều.
Các biện pháp chẩn đoán Bệnh Lyme
Việc chẩn đoán bệnh Lyme thường gặp khó khăn do hơi khó để xác định rõ những triệu chứng. Bác sĩ có thể dựa vào các yếu tố và biện pháp sau đây để chẩn đoán bệnh:
– Khai thác các thông tin của bệnh nhân như: nơi sinh sống và làm việc có nhiều cây cối hay không, có hay phải làm việc ở ngoài trời, có tiếp xúc với bọ chét hay không?
– Xét nghiệm kháng thể: đây là biện pháp thường được sử dụng trong chẩn đoán bệnh Lyme. Mẫu bệnh sẽ được lấy từ chất dịch trong cột sống hoặc ở khớp. Xét nghiệm kháng thể để phát hiện bệnh Lyme có 2 loại:
+ Xét nghiệm miễn dịch liên kết với enzym (ELISA): đây là xét nghiệm nhanh chóng được sử dụng phổ biến nhất.
Xét nghiệm miễn dịch liên kết với enzym (ELISA): đây là xét nghiệm nhanh chóng được sử dụng phổ biến nhất.
+ Kiểm tra blot Western: xét nghiệm này cũng hữu ích trong chẩn đoán bệnh Lyme, đồng thời giúp xác nhận kết quả của xét nghiệm ELISA, thường dùng trong trường hợp xác định bệnh Lyme mạn tính.
Nên thực hiện xét nghiệm kháng thể theo quy trình 2 bước: xét nghiệm ELISA trước sau đó là blot Western. Đối với tất cả các trường hợp có kết quả dương tính hoặc dương tính không rõ ràng khi xét nghiệm ELISA, cần tiến hành làm thêm xét nghiệm Western blot.
– Xét nghiệm phản ứng chuỗi PCR: nhằm phát hiện DNA của vi khuẩn gây bệnh Lyme. Nếu đã đang áp dụng kháng sinh trong điều trị bệnh Lyme nhưng tình hình bệnh không được cải thiện thì có thể sử dụng xét nghiệm PCR. Do đòi hỏi phải có kỹ thuật cao và chi phí tốn kém nên xét nghiệm PCR ít được áp dụng hơn so với xét nghiệm kháng thể. Bên cạnh đó xét nghiệm PCR cũng có nguy cơ trả ra kết quả dương tính giả.
Các biện pháp điều trị Bệnh Lyme
Hiện nay, kháng sinh là biện pháp chủ yếu được sử dụng để chữa bệnh Lyme. Điều trị càng được áp dụng sớm thì càng tăng cơ hội phục hồi, biến chứng nhờ đó cũng được hạn chế.
Cách dùng kháng sinh trong điều trị bệnh Lyme:
1. Kháng sinh đường uống:
– Dùng cho bệnh nhân đang ở giai đoạn đầu bị bệnh.
– Phân loại đối tượng:
– Người lớn: 1 trong 3 loại: doxycycline, cefuroxime hoặc amoxicillin.
– Trẻ em trên 8 tuổi: doxycycline.
– Trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú: cefuroxime hoặc amoxicillin.
– Thời gian sử dụng: trung bình một đợt điều trị kéo dài từ 14 – 21 ngày.
2. Kháng sinh đường tiêm tĩnh mạch:
– Nếu gặp biến chứng về thần kinh, bác sĩ có thể chỉ định cho bệnh nhân dùng kháng sinh đường tiêm tĩnh mạch.
– Thời gian sử dụng: 14 – 28 ngày.
– Công dụng: giúp loại bỏ nhiễm trùng nhưng phải mất một thời gian dài để hồi phục.
– Tác dụng phụ:
– Giảm lượng bạch cầu.
– Bệnh nhân bị tiêu chảy từ nhẹ đến nặng.
– Bị nhiễm khuẩn hoặc nhiễm trùng với các loại sinh vật kháng kháng sinh khác không liên quan tới bệnh Lyme.
3. Lưu ý sau khi dùng thuốc:
Sau khi điều trị bằng kháng sinh, có một số trường hợp bệnh nhân vẫn biểu hiện các triệu chứng như mệt mỏi, đau nhức cơ. Đây được gọi là hội chứng bệnh sau Lyme và vẫn chưa có biện pháp gì để cải thiện tình trạng này.
Nhìn chung, kháng sinh là phương pháp điều trị duy nhất hiện nay đem lại hiệu quả cao nếu được sử dụng ở giai đoạn sớm, với điều kiện là phải dùng đúng liều, đúng cách và đủ thời gian. Tuy đã có các phương pháp khác điều trị thay thế nhưng vẫn chưa chứng minh được tính hiệu quả và an toàn, cần được nghiên cứu thêm.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.