Tổng quan Bệnh quai bị
Bệnh quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, do virus quai bị gây bệnh, lây bệnh chủ yếu qua các giọt bắn chứa virus quai bị. Virus có ái tính cao với các tuyến ngoại tiết như tuyến nước bọt, tuyến sinh dục,… Bệnh thường gặp ở lứa tuổi trẻ nhỏ hoặc thanh thiếu niên, biểu hiện lâm sàng cấp tính với viêm tuyến mang tai hay gặp nhất. Ngoài ra có thể gặp tổn thương cơ quan khác như viêm tinh hoàn, viêm buồng trứng, viêm màng não,… Chẩn đoán xác định căn nguyên virus có thể sử dụng các xét nghiệm xác định virus hoặc xét nghiệm huyết thanh. Hiện vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là các biện pháp điều trị hỗ trợ và triệu chứng. Tiêm phòng vắc xin phòng quai bị là biện pháp phòng bệnh quan trọng, giảm tỉ lệ mắc bệnh đáng kể trong thời gian gần đây.
Bệnh quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, do virus quai bị gây bệnh
Nguyên nhân Bệnh quai bị
Virus quai bị thuộc nhóm Paramyxovirus, cấu trúc hình cầu, đường kính khoảng 120 -200 nm, vật chất di truyền là RNA sợi đơn, được bao bên ngoài là lớp vỏ lipid kép. Virus có thể tồn tại khá lâu ngoài cơ thể, virus có thể tồn tại khoảng 1 năm ở nhiệt độ -25 đến -70 độ C, 3 tháng ở nhiệt độ 15-20 độ C, ở nhiệt độ 37 độ C có thể tồn tại khoảng 1 tuần. Virus gây bệnh có hai loại kháng nguyên chính là kháng nguyên V và kháng nguyên S, có ái tính mạnh với các tuyến ngoại tiết như tuyến nước bọt, tuyến sinh dục, tuyến tụy và thần kinh. Khi cơ thể bị nhiễm virus quai bị, miễn dịch thu được là khá bền vững.
Nguyên nhân gây bệnh là virus quai bị thuộc nhóm Paramyxovirus
Triệu chứng Bệnh quai bị
Bệnh quai bị có thể tồn tại dưới 2 hình thức chính: Thể ẩn gặp ở khoảng 20 – 40% người bị nhiễm virus, người bệnh không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, là nguồn lây nhiễm khó kiểm soát; thể bệnh biểu hiện tổn thương đặc trưng tại các tuyến cơ quan đích, trong đó tuyến nước bọt mang tai là hay gặp nhất.
Khi mắc quai bị, bệnh sẽ tiến triển theo từng giai đoạn
Thời kỳ ủ bệnh: từ 2 -3 tuần. Người bệnh không có triệu chứng, tuy nhiên sau khoảng 2 tuần, có thể đào thải virus và gây bệnh.
Thời kỳ khởi phát: thường trong 1 – 2 ngày. Triệu chứng đầu tiên là đau vùng tai, mức độ đau khác nhau trên từng đối tượng, thường đau trước ống tai, lan ra xung quanh tai, đau làm hạn chế há miệng, nói khó. Bên cạnh đó, người bệnh có các triệu chứng toàn thân như: người mệt mỏi, chán ăn, ăn kém, đau mỏi cơ, đau mỏi người kèm theo có sốt 38 – 39 độ. Đặc điểm đau có tính chất gợi ý đến viêm tuyến nước bọt mang tai là: đau tại các vị trí khớp thái dương hàm, mỏm xương chũm, góc dưới xương hàm.
Thời kỳ toàn phát: trong khoảng 1 tuần. Biểu hiện sưng và đau tuyến nước bọt mang tai ngày càng rõ rệt. Ban đầu thường sưng một bên, lan sang tuyến mang tai đối diện sau 1 – 2 ngày, 70% các trường hợp có sưng tuyến mang tai 2 bên, thừng sưng đau tối đa trong vòng 1 tuần. Khi sưng nhẹ có thể không làm biến dạng khuôn mặt, nếu sưng nề to hơn mặt có thể lan xuống cổ, ngực. Tại vị trí tuyến mang tai bị sưng, da màu sắc bình thường, không có tấy đỏ. Khi thăm khám ấn vào chỗ sưng, có cảm giác đàn hồi, không lõm xuống, lỗ Sténon ở phía trong má thấy phù nề, tấy đỏ nhưng không chảy dịch mủ, ấn đau toàn bộ tuyến mang tai. Ngoài ra người bệnh có thể có các biểu hiện như sốt cao, mệt mỏi, chán ăn, đau mỏi toàn thân, hạch góc hàm và trước tai sưng đau, thăm khám có thể thấy biểu hiện viêm họng, ở trẻ nhỏ có thể có triệu chứng chảy máu cam.
Thời kỳ hồi phục: người bệnh bắt đầu hết sốt, tuyến mang tai đỡ đau và đỡ sưng, dần trở về bình thường sau khoảng 01 tuần.
Bệnh thường lành tính và hồi phục hoàn toàn. Tuy nhiên ở một số người bệnh có thể xảy ra các biến chứng, biểu hiện lâm sàng nặng nề hơn như viêm tinh hoàn, viêm buồng trứng, viêm tụy, viêm màng não, viêm não, viêm tuyến lệ, viêm cơ tim, viêm phổi,… (mục 9 phần biến chứng).
Các bất thường trên xét nghiệm như: số lượng bạch cầu thường bình thường hoặc giảm nhẹ, trường hợp có viêm tinh hoàn bạch cầu có thể tăng. Sinh hóa máu thấy men amylase tăng, trường hợp có viêm tụy lipase tăng, biến loạn dịch não tủy của viêm màng não – viêm não virus.
Các biện pháp chẩn đoán Bệnh quai bị
– Các xét nghiệm chẩn đoán căn nguyên:
+ Xét nghiệm xác định virus: trong giai đoạn cấp của bệnh, virus quai bị có thể được phân lập từ máu, nước bọt, dịch tụy, dịch não tủy, tinh dịch, sữa, nước tiểu của bệnh nhân. Virus phân lập dễ trên phổi gàn, tế bào thận khỉ, thận của phôi người, tế bào Helta. Ngoài nuôi cấy và phân lập virus, có thể phát hiện RNA virus quai bị bằng kỹ thuật RT PCR.
– Xét nghiệm huyết thanh học: phương pháp đơn giản và nhanh hơn các xét nghiệm xác định virus. Sau khoảng 05 ngày bị bệnh, kháng thể IgM đặc hiệu với quai bị có thể phát hiện, đạt đỉnh trong 1 tuần và có thể tồn tại sau vài tuần hoặc thậm chí vài tháng. Tuy nhiên, ở bệnh nhân đã tiêm phòng quai bị, kháng thể IgM có thể âm tính. Kháng thể IgG xuất hiện muộn hơn, tồn tại lâu hơn, cần được làm 2 lần để đánh giá động lực kháng thể. Lần thứ nhất trong 4 ngày đầu của bệnh, lần thứ hai sau khoảng 1 tuần – 10 ngày.
Chẩn đoán bệnh quai bị cần dựa vào các yếu tố gồm: dịch tễ ( chưa mắc quai bị và có tiếp xúc với người bị quai bị trong 2 -3 tuần), biểu hiện lâm sàng đã mô tả trên, các xét nghiệm huyết thanh hoặc xét nghiệm virus.
Cần chẩn đoán phân biệt bệnh quai bị với một số bệnh khác như viêm tuyến mang tai do các vi khuẩn, virus khác; mọc răng số 8; sỏi tuyến nước bọt; viêm hạch góc hàm; viêm tinh hoàn do các căn nguyên khác; viêm màng não do căn nguyên virus khác;
Các biện pháp điều trị Bệnh quai bị
– Hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu, điều trị bệnh quai bị gồm điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ.
– Sưng tuyến mang tai: cần cách ly người bệnh trong giai đoạn phát tán virus; nghỉ ngơi; hạn chế hoạt động mạnh; dùng các thuốc giảm đau hạ sốt như paracetamol liều 10 – 15 mg/kg/lần, mỗi lần cách nhau ít nhất 4 – 6 tiếng; chườm ấm vùng sưng đau; vệ sinh răng miệng; ăn lỏng, ăn đồ mềm, thức ăn dễ nhai, dễ nuốt;…
Khi mắc bệnh, người bệnh cần phải được theo dõi điều trị sát sao
– Viêm tinh hoàn: người bệnh cần nghỉ ngơi, kiêng sinh hoạt tình dục; sử dụng các thuốc giảm đau hạ sốt như paracetamol nói trên; chỉ định corticoid trong khoảng 3 -5 ngày ( ví dụ prednisolone 60 mg/ngày); khi tình trạng viêm tinh hoàn cải thiện, dừng sử dụng các thuốc trên. Chú ý tác dụng phụ của thuốc khi sử dụng.
– Viêm màng não, viêm não do quai bị: điều trị giảm đau, hạ sốt, an thần; sử dụng manitol khi có biểu hiện tăng áp lực nội sọ; chỉ định corticoid trong 3 -5 ngày ( thường dùng dexamethasone liều 0,3 – 0,5 mg/kg/ngày). Chú ý tác dụng phụ của thuốc khi sử dụng. Chọc lại dịch não tủy đánh giá tiển triển của bệnh.
– Viêm tụy: trường hợp nặng cần nhịn ăn, nuôi dưỡng tĩnh mạch; giảm đau; truyền dịch; bù điện giải; tập ăn trở lại sớm,
Tài liệu tham khảo
Patrick Davison; Jason Morris. Mumps. StatPearls
Centers for Disease Control and Prevention. Signs & Symptoms of Mumps
Litman N, Baum SG. Mumps Virus. In: Principles and Practice of Infectious Diseases, Bennett JE, Dolin R, Blaser MJ (Eds), Churchill Livingstone, New York
Missouri Department of Health & Senior Services. Health Update December 8, 2016
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.