Tổng quan Lao tiềm ẩn
Bệnh lao tiềm ẩn hay còn gọi là LTBI (latent tuberkulos infeksjon) là tình trạng một người mang vi khuẩn lao ở trạng thái không hoạt động. Chỉ có thể phát hiện được vi khuẩn lao qua các xét nghiệm đặc hiệu.
Các trường hợp bị lao tiềm ẩn không có bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào. Chỉ khi cơ thể suy giảm miễn dịch, lao tiềm ẩn chuyển thành dạng lao hoạt động và gây ra những tổn thương thực tổn tại các cơ quan trên cơ thể thì mới có triệu chứng tùy theo cơ quan biểu hiện bệnh.
Hiện nay, ước tính có khoảng ⅓ dân số thế giới nhiễm lao. Phần lớn trong số đó là lao tiềm ẩn. Có thể ngăn ngừa việc tái hoạt động của vi khuẩn lao dựa vào điều trị dự phòng. Tuy nhiên, cần cân nhắc và lựa chọn trước khi điều trị lao tiềm ẩn.
Lao là bệnh nguy hiểm không nên chủ quan
Do chi phí cao và nhiều yếu tố khác nên các xét nghiệm tầm soát lao không được sử dụng để thực hiện hàng loạt.
Việc quản lý lao tiềm ẩn cần phải thực hiện các biện pháp can thiệp đối với các trường hợp nghi ngờ. Các phác đồ điều trị sẽ được cá thể hóa và cần theo dõi cũng như đánh giá lại kết quả điều trị.
Khi nào một người được xác định là Lao tiềm ẩn?
Tình trạng lao tiềm ẩn được xác định khi:
- Không tìm thấy bệnh lao thực tổn tại bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể
- Không lây bệnh lao khi tiếp xúc với người khác
- Các xét nghiệm dịch tiết cơ thể đều âm tính với vi khuẩn lao
- Xét nghiệm máu IGRA (Interferon Gamma Release Assay) hoặc phản ứng lao tố ( Mantoux) cho kết quả Dương tính
Khi tiếp xúc gần với người mắc lao, người tiếp xúc sẽ có nguy cơ mắc lao tiềm ẩn. Đặc biệt, những người sống lâu dài trong những vùng dịch tễ lao cao như ở các nước châu Phi, châu Á, Mỹ latinh,… cũng sẽ có nguy cơ mắc lao tiềm ẩn cao hơn các vùng khác.
Việc tiêm phòng BCG là vaccine ngừa lao cũng không có nghĩa là bạn sẽ không mắc lao tiềm ẩn. Mặt khác, ở người lớn thì việc tiêm vaccine phòng lao BCG cũng vẫn có thể mắc lao.
Các biện pháp chẩn đoán Lao tiềm ẩn
Để chẩn đoán lao tiềm ẩn, cần dựa vào các xét nghiệm sau:
Xét nghiệm chẩn đoán lao tiềm ẩn
Phản ứng lao tố (Xét nghiệm Mantoux)
Người được xét nghiệm sẽ được tiêm dưới da 0,1ml tuberculin unit (TU), purified protein derivative (PPD), sau 48-72h sẽ quay lại đọc kết quả bằng cách đo quầng đỏ ở vùng tiêm:
- Nếu đường kính quầng đỏ ≥ 5mm thì sẽ được chẩn đoán là dương tính với các nhóm bệnh nhân:
- Bệnh nhân nhiễm HIV
- Bệnh nhân đang điều trị các thuốc ức chế miễn dịch dài ngày
- Người tiếp xúc với nguồn lây là các case có xét nghiệm AFB (+)
- Nếu đường kính quầng đỏ ≥ 10mm thì sẽ được chẩn đoán là dương tính với các nhóm bệnh nhân:
- Những người tiêm chích ma túy nhưng âm tính với xét nghiệm HIV
- Nhân viên y tế làm việc trong môi trường có nguy cơ cao mắc lao
- Các trường hợp chạy thận nhân tạo, tiểu đường, cắt dạ dày, ruột non.
- Nếu đường kính quầng đỏ ≥ 15mm thì sẽ được chẩn đoán là dương tính với các những người không có nguy cơ cao mắc lao.
- Phản ứng lao tố không sử dụng cho các trường hợp đã tiêm BCG, ưu tiên xét nghiệm ở trẻ em < 5 tuổi.
Xét nghiệm máu IGRA (Interferon Gamma Release Assay)
Đây là xét nghiệm đánh giá phản ứng miễn dịch của cơ thể với vi khuẩn lao thông qua tế bào lympho T CD4.
Có 2 loại xét nghiệm IGRA, đó là:
Xét nghiệm T-SPOT TB: là xét nghiệm định lượng tế bào Lympho T tiết INF-γ
- Xét nghiệm Quantiferon-TB: Là xét nghiệm ELISA đo nồng độ IFN- γ
- Xét nghiệm này có thể sử dụng đối với những người đã tiêm phòng lao bằng BCG
Các biện pháp điều trị Lao tiềm ẩn
Khi nào cần điều trị Lao tiềm ẩn?
Theo tổ chức y tế thế giới, việc chọn đối tượng để chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn cần phải cân nhắc kỹ. Việc điều trị lao tiềm ẩn để làm giảm nguy cơ chuyển sang lao thực tổn sẽ giúp ngăn chặn nguồn lây bệnh, kiểm soát bệnh lao. Vậy các trường hợp sau đây sẽ cần phải điều trị lao tiềm ẩn, đó là:
Bệnh nhân HIV
- Những trường hợp tiếp xúc với nguồn lây
- Đang dùng thuốc sinh học TNF
- Các bệnh nhân đang phải chạy thận nhân tạo
- Bệnh nhân phải ghép tạng hay ghép tủy
- Bệnh nhân bụi phổi Silic
Bên cạnh đó, sẽ cân nhắc điều trị đối với các trường hợp sau:
- Những người đến từ các quốc gia có tỉ lệ mắc lao mới cao (> 100/100.000 dân) hoặc từ các vùng có gánh nặng lớn về bệnh lao
- Các phạm nhân đang cải tạo
- Nhân viên y tế làm việc trong môi trường có nguy cơ cao mắc lao
- Người vô gia cư
- Người nghiện ma tú
Để chẩn đoán lao tiềm ẩn, cần dựa vào các xét nghiệm sau:
Phản ứng lao tố (Xét nghiệm Mantoux)
Người được xét nghiệm sẽ được tiêm dưới da 0,1ml tuberculin unit (TU), purified protein derivative (PPD), sau 48-72h sẽ quay lại đọc kết quả bằng cách đo quầng đỏ ở vùng tiêm:
Nếu đường kính quầng đỏ ≥ 5mm thì sẽ được chẩn đoán là dương tính với các nhóm bệnh nhân:
- Bệnh nhân nhiễm HIV
- Bệnh nhân đang điều trị các thuốc ức chế miễn dịch dài ngày
- Người tiếp xúc với nguồn lây là các case có xét nghiệm AFB (+)
- Nếu đường kính quầng đỏ ≥ 10mm thì sẽ được chẩn đoán là dương tính với các nhóm bệnh nhân:
- Những người tiêm chích ma túy nhưng âm tính với xét nghiệm HIV
- Nhân viên y tế làm việc trong môi trường có nguy cơ cao mắc lao
- Các trường hợp chạy thận nhân tạo, tiểu đường, cắt dạ dày, ruột non.
- Nếu đường kính quầng đỏ ≥ 15mm thì sẽ được chẩn đoán là dương tính với các những người không có nguy cơ cao mắc lao.
- Phản ứng lao tố không sử dụng cho các trường hợp đã tiêm BCG, ưu tiên xét nghiệm ở trẻ em < 5 tuổi.
Xét nghiệm máu IGRA (Interferon Gamma Release Assay)
Đây là xét nghiệm đánh giá phản ứng miễn dịch của cơ thể với vi khuẩn lao thông qua tế bào lympho T CD4.
Có 2 loại xét nghiệm IGRA, đó là:
- Xét nghiệm T-SPOT TB: là xét nghiệm định lượng tế bào Lympho T tiết INF-γ
- Xét nghiệm Quantiferon-TB: Là xét nghiệm ELISA đo nồng độ IFN- γ
Xét nghiệm này có thể sử dụng đối với những người đã tiêm phòng lao bằng BCG
Điều trị Lao tiềm ẩn như thế nào?
Nguyên tắc điều trị
- Cần đánh giá khả năng kháng thuốc của nguồn lây bệnh nếu biết rõ nguồn lây
- Xem xét các bệnh kèm theo
- Đánh giá tương tác thuốc
Các phác đồ điều trị được khuyến cáo:
- Phác đồ sử dụng Isoniazid mỗi ngày trong 6 – 9 tháng.
- Phác đồ sử dụng Rifampicin hàng ngày trong 4 tháng liên tục. Phâc đồ này không được sử dụng khi đang điều trị ARV
- Phác đồ phối hợp 2 thuốc Isoniazid và Rifampicin/ ngày trong 3 tháng. Vì có mặt R nên cũng cần tránh sử dụng khi đang điều trị ARV. Phác đồ này thường được ưu tiên sử dụng ở trẻ em từ 1-15 tuổi.
- Phác đồ phối hợp 2 thuốc Rifabutin và Isoniazid (HP)/ tuần/ 12 tuần. Phác đồ này được chỉ định trong các trường hợp người mắc lao tiềm ẩn > 1 tuổi ở những vùng có tỉ lệ mắc lao cao + mới tiếp xúc với nguồn lây + Xquang có tổn thương cũ nghi lao. Phác đồ này không được dùng trong các trường hợp trẻ dưới 1 tuổi hoặc đang điều trị ARV hoặc nghi ngờ kháng R hay Z, phụ nữ có thai hay có dự định có thai.
Các trường hợp hay gặp trong điều trị lao tiềm ẩn:
Tiếp xúc với nguồn lây trong gia đình hoặc nơi cư trú
- Nếu là trẻ < 5 tuổi: Cần điều trị lao tiềm ẩn
- Nếu > 5 tuổi:
- Điều trị lao tiềm ẩn khi kết quả test (+) ở các trường hợp sống tại các quốc gia có tỉ lệ lao lao thấp (< 100/100.000 dân)
- Điều trị ngay lao tiềm ẩn nếu sống ở các quốc gia có tỉ lệ mắc lao cao (> 100/100.000 dân)
Đối với bệnh nhân HIV:
- Nếu < 1 tuổi: Cần điều trị ngay lao tiềm ẩn khi tiếp xúc với nguồn lây
- Nếu ≥ 1 tuổi: điều trị ngay lao tiềm ẩn ở mọi trường hợp
Đối với phụ nữ đang mang thai: Chỉ dùng phác đồ điều trị isoniazid trong 9 tháng mà không đc dùng phác đồ 3HP.
- Những trường hợp có nguy cơ cao cần điều trị sớm
- Nếu không có nguy cơ cao thì sẽ điều trị sau sinh
Đối với các trường hợp lao tiềm ẩn có nguồn lây từ người bệnh mắc lao đa kháng
Hiện chưa có nhiều bằng chứng về điều trị lao tiềm ẩn ở các trường hợp này. Phác đồ mà Việt Nam vẫn sử dụng đó là:
- Phác đồ sử dụng Isoniazid trong 9 tháng với người lớn nhiễm HIV
- Phác đồ sử dụng Isoniazid trong 6 tháng đối với trẻ em < 5 tuổi có tiếp xúc với nguồn lây hoặc trẻ em đang điều trị HIV
- Sử dụng phác đồ 3HP cho các trường hợp còn lại > 12 tuổi
- Cập nhật chẩn đoán – điều trị lao tiềm ẩn( latent tb infection) | Hội hô hấp TP HCM
- Lao tiềm ẩn là gì? Lao tiềm ẩn có lây không? | Hệ thống vinmec
- Điều trị lao tiềm ẩn | Bệnh viện phổi Đà Nẵng
- Hướng dẫn phát hiện và điều trị lao tiềm ẩn | Thư viện pháp luật
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.